mercredi 7 décembre 2011

Anh Huy

Căn Nguyên
( Lá bài Phật Giáo )
Khảo luận Chính trị

Phần 4



Vào những năm 1961/62, Tổng Thống J.F.Kennedy đã giải quyết các vấn đề sôi bỏng trên thế giới với những quyết định táo bạo. Vụ phi cơ CU2 bị Liên Sô bắn hạ, tiếp đến vụ Vịnh Con Heo, rồi xảy ra vấn đề Liên Sô toan thiết bị nhiều dàn hỏa tiển mang đầu đạn nguyên tử trên đảo quốc CuBa của Fidel Castro, sát nách lục địa Hoa Kỳ, hăm dọa trực tiếp nền an ninh Hợp Chúng Quốc.

Tối hậu thư của TổngThống Kennedy buộcTrùm đỏ Liên Sô Khrouchtchev tháo gở tức thì nếu không là chiến tranh khai hỏa, khiến nhân loại sống trong lo âu thắc thỏm suốt thời điểm đó. Cũng may, Chủ tịch Khrouchtchev nhượng bộ, chấp nhận tháo gở toàn bộ dàn hỏa tiển đem về nước. Thế giới thoát qua một cuộc chiến tranh nguyên tử trong đường tơ kẻ tóc.

Vấn đề Việt Nam, dưới thời Tổng Thống Kennedy là tiếp tục kế hoạch và đường lối của hai vị Tổng Thống tiền nhiệm Truman và Eisenhower. Như đã trình bày, sau hiệp định Genève 1954 đến 1963 tình trạng Việt Nam không khác gì thời gian 15 phút nghỉ giải lao dứt hiệp đầu của một trận túc cầu.

Thượng Nghị Sĩ Kennedy đắc cử Tổng Thống vào tháng 11.1960, cũng trong thời gian đó MTGPMN được Cộng Sản BắcViệt dựng lên, rồi 11.11.1960 cuộc đảo chánh của Đại tá Nguyễn Chánh Thi và Trung tá Vương Văn Đông với sự tiếp tay của vài Chánh đảng Quốc gia. Dù thất bại. nhưng đó là một trong những biến cố gây chấn động cho nền Đệ Nhất Cộng Hòa Việt Nam của Gia đình Tổng Thống Ngô Đình Diệm.

MTGPMN từ lúc thành lập cho đến cuối năm 1961, về hoạt động quân sự chỉ những trận đánh du kích lẻ tẻ nhắm vào những tiền đồn hẻo lánh, đấp mô, phá cầu, pháo kích vào ấp chiến lược, phục kích những đoàn công xa.Quân đội VNCH tảo thanh, càn quét vào những chiến khu khiến quân Chủ Lực Miền đào thoát, tránh né những cuộc đụng độ. Đồng thời, lực lượng an ninh tình báo VNCH thanh lọc, tiểu trừ và làm tê liệt phần lớn những cơ sở hạ tầng đặc công nằm vùng của Việt Cộng từ cấp ấp xã cho đến quận tỉnh.
Cho nên vào năm 1962, tinh thần Việt Cộng từ khu 5 đến khu 9 miền Tây sa sút trầm trọng đến mức độ Hà Nội phải xét lại nhân sự và kế hoạch của Trung Ương Cục Miền Nam thì bất ngờ khu 8 cứu nguy cho phe Nguyễn Chí Thanh và Lê Duẫn qua trận Ấp Bắc.
Một trận đánh làm lung lay chế độ Đệ Nhất VNCH Ngô Đình Diệm và cả Tòa Bạch Ốc Hoa Kỳ. Nhìn cục bộ thì là một trận nhỏ nhưng vào giửa một tình huống chính trị quốc tế khi cuộc
chiến tranh Lạnh leo thang đến cùng độ, cơ hồ tạo thành cuộc chiến tranh Nóng. Bởi vậy, trận ấp Bắc bổng nhiên đã làm sôi động trên chính trường thế giới.

Tình báoVNCH cho tin một lực lượng Việt Cộng tập trung tại ấp Bắc, một ấp nhỏ thuộc xã Tân Phú, quận Cai Lậy, Tỉnh Định Tường, cách Mỹ Tho 20 Km.
Đại-tá Bùi Đình Đạm lúc bấy giờ là Tư Lệnh Sư đoàn 7 Bộ Binh, theo chỉ thị của Thiếu tướng Huỳnh văn Cao, Tư Lệnh Quân Khu IV huy động đại lực lượng tấn công và do Paul Vann, Trung tá Hoa Kỳ, Cố vấn Sư đoàn 7 BB điều động trực thăng vận UH-IA và CH-21, gồm cả Thiết vận xa M-113, Tiểu đoàn 8 Nhảy dù, 2 Đại đội Biệt Động Quân và Bảo An với quân số khoảng 2500 người.
Trong khi đó, Việt Cộng chỉ có 400 quân gồm một Đại đội thuộc Tiểu đoàn 261 Chủ lực quân khu 8, một Đại đội Địa phương Tỉnh, một Trung đội Địa phương Huyện và một Trung đội trợ chiến.

Trận ấp Bắc, Việt Nam Cộng Hòa bị thảm bại, " Nhảy xuống đầu Việt Cộng, bị Việt Cộng lao lên chém ", rồi từng lớp nhảy tăng viện đều phải đương đầu với trận cận chiến mà Việt Cộng ở thế thuận lợi nhất.
Trận chiến kéo dài từ 06 giờ sáng đến 17 giờ chiều với 5 đợt tấn công, 3 Cố vấn Hoa Kỳ tử thương, 10 bị thương, quân VNCH hy sinh 65 người, 100 bị thương.
Theo tài liệu Cộng sản : Quân đội VNCH chết và bị thương 450 người. Tất nhiên phía Việt Cộng như thông lệ không bao giờ nêu con số thiệt hại của họ.
Bộ Quốc Phòng VNCH thông cáo: Việt Cộng chết 101 người, Cố vấn Hoa Kỳ tổng kết thì Việt Cộng bỏ lại 41 xác chết tại trận địa .

Chiến thắng ấp Bắc chỉ là một chiến thắng chính trị thu lượm được của MTGPMN nhưng thực tế nó không khỏa lấp được nỗi lo âu to lớn và càng ngày càng hiện rõ ở Hà Nội về hiện tình kinh tế , chính trị, quân sự và nội bộ đảng Lao Động ( tức Đảng CS trá hình ).

Tranh chấp giữa hai phe mỗi ngày một trấm trọng, mỗi phe đều dựa vào thế lực Cộng sản ngoại bang giữa Liên-Sô và Trung Cộng. Sau " Chiến thắng Chính trị " ấp Bắc của MTGPMN ( Công cụ của CS Bắc Việt ), Bộ Chính Trị CSBV đã nhìn thấy rõ ảnh hưởng của Bắc Kinh đang ăn sâu trong Trung Ương Cục Miền Nam và những thành phần chưa là Cộng sản như Nguyễn Hữu Thọ và nhất là Khmer Đỏ đã bắt đầu thanh trừng các thành phần " thân CS BV ". Nhóm Pol Pot xích lại gần Trung Cộng và ly khai Cộng sản VN mà trước đây Khmer Đỏ chỉ là một bộ phận trực thuộc Trung Ương Cục R.

Chiến thắng trận ấp Bắc hay thảm bại trận ấp Bắc đều là khởi điểm cho 2 phe toan tính thay đổi sách lược nhằm mở rộng cuộc chiến tranh hay mưu tìm một nền hòa bình cho Việt Nam.

Đầu năm 1963, cả hai miền Nam Bắc đều thắm mệt, đều nghĩ đến một nền hòa bình cho quê hương , đều cố tạo điều kiện trao đổi và gặp gở ngõ hầu thoát ra khỏi gọng kềm của ngoại bang đang đè nặng cả hai miền Nam Bắc qua 2 hình thức : "Chống Quốc Tế Cộng Sản " của bên này, " Chống Đế Quốc Tư Bản " của bên kia .

Hậu quả của trận ấp Bắc, đối với ngoại bang trợ lực hoàn toàn khác với cái nhìn của VNCH và CS Bắc Việt . Hoa Kỳ yểm trợ và cố vấn VNCH. CS Bắc Việt thì được trợ lực và chỉ đạo bởi Trung Cộng và Liên Sô.
Nhưng, Trung Cộng và Liên Sô không cùng một chiến lược trù định cho Đông Dương .Đằng khác, xuyên qua trận ấp Bắc, càng về lâu về dài, MTGPMN sẽ thoát khỏi tầm tay giựt dây điều khiển của CS Bắc Việt.
Mưu toan của Trung Cộng mãi cho đến ngày 30.04.1975 là chủ trương ngắt Miền Nam VN thành hai, vùng I & II ( VNCH ) tức là liên khu 5,6 và một phần liên khu 7( CSVN ) để thành lập lãnh thổ cho MTGPMN vì Trung Cộng đang từng bước cố nắm được quyền chỉ đạo MTGPMN. Thực hiện được toan tính này Việt Nam chia thành 3 :
1/ Bắc Việt tay sai Liên Sô.
2/ Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam / MTGPMN( vùng I &II ) chư hầu TC.
3/ VNCH ( vùng III & IV ) ảnh hưởng Hoa Kỳ ( hoặc Pháp thay thế )

Trung Cộng không chấp nhận Việt Nam thống nhất và lệ thuộc Liên Sô, cho nên muốn tạo trái độn chắn giửa hai miền Nam Bắc VN với một chánh quyền thân Trung Cộng, như thế ngăn chặn được làn sóng Đệ Tam Quốc Tế Liên Sô qua tay CS Bắc Việt tràn xuống Đông Nam Á, cùng lúc phá vở Liên Phòng Đông Nam Á, sách lược Domino của Hoa Kỳ và Đồng minh.

Sự thảm bại trong trận ấp Bắc tạo cho Hoa Kỳ mạnh dạn đặt điều kiện đổ quân trực tiếp tham chiến vào VN. Bởi sự thảm bại trận ấp Bắc đã đủ lý do để chánh quyền Ngô Đình Diệm không còn bào chữa khả năng thích ứng của Quân Đội VNCH khi lâm trận địa chiến từ cấp Trung đoàn.
Mặc khác, việc đổ quân Mỹ vào VN còn có tác dụng đặt CS Bắc Việt vào tư thế phải nhúng tay chính trị thật sự của mình để chỉ đạo MTGPMN, đồng thời xua quân Bắc Việt xâm nhập vào Nam để trực tiếp đối đầu chiến tranh Đông Dương lần thứ 2. Mục tiêu tối hậu là dồn Trung Cộng và Liên Sô vào bí thế, buộc phải cùng trợ lực CS Bắc Việt chống trả lại Hoa Kỳ trong cuộc chiến tranh cục bộ này .

Đương thời, Hồ Chí Minh vẫn còn thực quyền lãnh đạo Miền Bắc, thuộc hạ lúc bấy giờ phần đông đi vào con đường phục vụ Liên Sô. Cho nên, trận ấp Bắc tạo tiếng vang cho MTGPMN, mở đường cho Trung Cộng lấn sâu vào đầu nảo và chỉ đạo MT phục dịch cho mưu đồ chia 3 Việt Nam là điều Hà Nội thẳng thừng không chấp nhận.
Để phá vỡ kế hoạch đem quân Hoa Kỳ vào Việt Nam, bẻ gảy tham vọng của Trung Cộng vói tay vào bàn cờ Đông Dương, Hồ Chí Minh bèn gửi vào Sài Gòn tặng Tổng Thống Ngô Đình Diệm một cành Đào mang nhiều ý nghĩa đồng tình.

Giáo sư Mieczlaw Maneli, Trưởng phái bộ Ba Lan trong Ủy Hội Quốc Tế Đình Chiến tại VN, ông thường đi lại giữa Hà Nội và Sài Gòn. Ông tiếp xúc với các nhân vật chủ yếu của Nam Bắc từ Ngô Đình Nhu đến Phạm Văn Đồng, Xuân Thủy, Võ Nguyên Giáp và Hà Văn Lâu ( Trưởng phái đoàn VNDCCH cạnh Uỷ Hội Quốc Tế Kiểm Soát Đình Chiến ).
Tại SàiGòn, Ông Maneli lại thân thiết với Khâm sứ Tòa Thánh Vatican Salvatore d'Asta, Đại sứ Italie Grovanni Orlandi, Đại sứ Goburdhum, Trưởng phái bộ Ấn Độ Ủy Hội Quốc Tế Kiểm Soát Đình Chiến ...
Giáo Sư Maneli trở thành sứ giả, con thoi giữa SàiGòn và Hà Nội và từ đó được biết vào giữa năm 1962 và đầu năm 1963: Hồ Chí Minh sẳn sàng thương thuyết với Chánh quyền Ngô Đình Diệm để trực tiếp giải quyết vấn đề Nam Bắc Việt Nam.

Nhân dịp đầu xuân từ SàiGòn ra Hà Nội, Đại sứ Ấn Độ Goburdhum đến thăm Chủ Tịch Hồ Chí Minh, họ Hồ vờ ngây thơ hỏi ở SàiGòn có gì lạ không, lại còn hỏi thăm sức khỏe Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Lúc Đại sứ từ biệt ra về, Hồ Chí Minh ân cần dặn dò :
" Khi nào gặp Tổng Thống Diệm nhờ ông bắt tay ông Diệm dùm tôi ".

Cuối tháng 02.1963, Maneli đi Hà Nội mang theo " kế hoạch hòa bình " của Pháp do Đại sứ Pháp Lalouette trao tay.
Tháng 04.1963, tình báo Trung Hoa Dân Quốc tiết lộ : qua sự trung gian của Pháp, một cuộc gặp gở giữa Cố Vấn Ngô Đình Nhu và Đặc sứ Hà Nội tại một ngôi biệt thự ở Đà Lạt.
Trước đó lại có tin đồn một cuộc họp mật giữa Cố Vấn Ngô Đình Nhu và Ủy Viên Bộ Chính Trị CSBV Phạm Hùng trong rừng lá Tánh Linh.
Theo Giáo Sư Maneli, trong chuyến đi Hà Nội gặp Phạm Văn Đồng và Xuân Thủy thì 2 ngày sau Maneli được giới lãnh đạo Hà Nội chính thức trả lời :
"Hồ Chủ Tịch đã tuyên bố từ lâu nay rằng, chính phủ sẵn sàng vào bất cứ lúc nào công khai hay bí mật để bắt đầu thương thảo giữa đôi bên "

Căn cứ vào tài liệu " War of the Vanquished " của Đại sứ Ba Lan Gs M. Maneli cộng thêm tài liệu " Les deux guerres du Vietnam "của G.Chaffard, đối chiếu thêm những thiên hồi ký của nhiều nhân vật trong cuộc và có thẩm quyền thì cuộc thương thuyết dự định giữa hai miền Nam Bắc đã thành sự thật, khởi đầu từ giữa năm 1962 ở Quai d'Orsay, Paris tức Trụ sở Bộ Ngoại Giao Pháp.

Nguyên do, có lẽ Chủ Tịch Hồ Chí Minh sợ cái giây thòng lọng sẽ siết cổ mình từ Bắc Kinh quăng tới, cùng lúc chuỗi giây xích cột chặt đôi chân già của mình trì kéo gãy lọi bởi Mạc Tư Khoa, ngược lại Tổng Thống Ngô Đình Diệm và Cố Vấn Ngô Đình Nhu cũng đang khốn đốn, lo âu, hoảng sợ trước áp lực Hoa Kỳ qua bóng dáng Sát thần CIA, chẳng khác gì đang bị đẩy xô đến bờ hang sâu vực thẵm.
Lời cáo buộc của Tướng CIA Lansdale :
" Quả thực Ngô Đình Nhu chứ không phải Ông Diệm đã toan tính thương thuyết với Hà Nội và đó là cuộc thương thuyết sẽ tệ nhất nếu thành hình "
Hàm ý Hoa Kỳ không dung thứ, một khi chánh quyền của Gia đình Ngô Đình Diệm ương ngạnh đi ngược lại chủ trương của Hoa Kỳ .

Cũng nên biết rằng Tướng CIA Lansdale, vị Tướng lãnh Hoa Kỳ đãm nhiệm trách vụ trong thập niên 1950 là vun bồi , bảo trợ cho chế độ Ngô Đình Diệm được đâm chồi nẩy lá đứng vửng tại Miền Nam với sự ủng hộ cuồng nhiệt của gần 1 triệu đồng bào Thiên Chúa Giáo miền Bắc di cư giữa 20 triệu đồng bào miền Nam thật thà chất phác.

Tìm được thế dựa của Pháp với chủ trương"Trung Lập Hóa Đông Dương" qua Đại sứ Lalouette. Tin tưởng vào sự trung thành của đa số Tướng lãnh, Sĩ quan thân cận nắm giử quyền hành then chốt, từ đầu não Bộ Tổng Tham Mưu, Tư lệnh các Quân đoàn, các Quân Binh Chủng cho đến tận phạm vi Tiểu khu địa phương. Đoan chắc, Đảng Cần Lao Nhân Vị sau 9 năm gầy dựng đã trở thành một lực lượng chính trị mạnh mẽ sẵn sàng hậu thuẫn mình. Đồng thời quyết đoán, hai triệu Đồng bào Thiên Chúa giáo Vatican là một thực thể nhân dân bảo vệ và phòng ngự chính quyền Ngô Đình Diệm bền vững trước mọi sóng gió chính trị bất cứ từ đâu đưa đến.
Cho nên, Cố Vấn Ngô Đình Nhu trở nên cứng rắn đối với Hoa Kỳ. Thời gian trước, Ông Cố Vấn còn do dự khi Tổng Thống Ngô Đình Diệm phản đối Hoa Kỳ đề nghị đem quân chiến đấu vào Việt Nam thì nay Cố Vấn Ngô Đình Nhu tán đồng và còn quyết liệt hơn .
Từ khi bang giao VNCH- Pháp được cải thiện, tình báo Pháp thường xuyên liên lạc và thông báo những tin mật : Hoa kỳ đang toan tính lật đổ chế độ Ngô Đình Diệm sau khi Tổng Thống Kennedy bổ nhiệm Ông Henry Cabot Lodge làm Đại sứ Hoa Kỳ tại SàiGòn.
Tháng 05.1963, Cố Vấn Ngô Đình Nhu chống Hoa Kỳ kịch liệt hơn khi tuyên bố với báo Washington Post, hãng thông tấn UPI và báo NewYork Times, đại ý, VNCH muốn Hoa Kỳ rút bớt một số cố vấn quân sự :
" Ông không nghĩ rằng người Mỹ có cái khả năng cho người Việt Nam chúng tôi những lời khuyên về chiến tranh cách mạng ".
Thâm thúy, Ông Nhu còn sâu xa hơn :
" Người Hoa Kỳ rất tiến bộ trong các lãnh vực như không gian, còn những vấn đề nho nhỏ trên trái đất này, tôi nghĩ người Mỹ chẳng hơn gì chúng tôi"

Áp lực của Hoa Kỳ đè nặng lênVNCH buộc Chánh quyền Ngô Đình Diệm phải chấp nhận Hoa Kỳ đổ quân chiến đấu vào Việt Nam. Bởi vì, thời gian 15 phút nghỉ giải lao sau hiệp đầu của trận đấu Túc cầu đã chấm dứt. Có nghĩa là 9 năm sau Hiệp định Genève 1954, thời lượng để hai miền Nam Bắc rèn quân chỉnh cán hoàn tất. Bây giờ là thời điểm khai mào cho cuộc chiến Đông Dương lần thứ hai.
Cuộc chiến tranh cục bộ phải diễn ra trên đất nước Việt Nam nằm trong chiến lược toàn cầu, bằng mọi cách Hoa Kỳ phải thực hiện cho kỳ được để kết thúc cuộc"Chiến tranh Lạnh " trong chiến thắng !

Tháng 05.1963, tại Vũ Hán, Bộ Đối Ngoại Trung Cộng tổ chức một cuộc họp quan trọng giữa hai Ban Lãnh Đạo Đảng CS Bắc Việt và Đảng CS Trung Quốc.
Tài liệu CS lưu trữ còn ghi :
" Tại Vũ Hán năm 1963, ban lãnh đạo Trung Quốc thuyết phục ban lãnh đạo Việt Nam chống Liên Sô và tham gia " Quốc Tế Mới " gồm 11 đảng Cộng Sản trên Thế giới do Bắc Kinh thành lập và chỉ huy.
Đặng Tiểu Bình hứa sẽ viện trợ cho CS Việt Nam 01 tỷ "Nhân dân tệ" nếu CS Việt Nam không nhận viện trợ của Liên Sô. Mãi 15 năm sau (1978), Hà Nội mới lên tiếng tố cáo về sự kiện trên rằng : " Trong thời kỳ 1954-1964, vì lợi ích dân tộc ích kỷ của họ, vì đánh giá quá cao Đế Quốc Mỹ và sợ Mỹ, Mao Trạch Đông và đồng bọn đã nhiều lần ngăn cản ta đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang chống Đế Quốc Mỹ. Trên thực tế, họ ép ta phải nhận sự chia cắt đất nước.
Đồng thời, lúc đó, Đặng Tiểu Bình đang giử chức Tổng Bí Thư Đảng CSTQ còn thòng thêm một câu hăm dọa :
" Dùng lực lượng vũ trang để thống nhất nước nhà sẽ có hai khả năng : một là thắng và một khả năng nữa mất cã Miền Bắc ".

Ba áp lực nặng nề đè xuống hai miền Nam Bắc :
1/ Áp lực Hoa Kỳ trói buộc Miền Nam.
2/ Áp lực Liên Sô và Trung Cộng đối chọi nhau để khống chế Miền Bắc.
Đó chính là "căn nguyên "mà cả hai Miền Nam Bắc tìm kiếm và tạo dựng lại điểm chính trị đồng quy hợp lý thuận tình dân tộc.

Chủ trương tách rời khỏi qũy đạo Hoa Kỳ của Cố Vấn Ngô Đình Nhu cũng phải được dọ ý qua Đức Tổng Giám Mục Ngô Đình Thục, Khâm Sứ Tòa Thánh Vatican ngài Salvatore d'Asta. Có nghĩa là Đức Giáo Hoàng Paul VI không hề thống trách phương sách thương thuyết với Cộng Sản Bắc Việt của Gia đình Tổng Thống Ngô Dình Diệm, một Thế gia vọng tộc Thiên Chúa giáo Vatican ngoan đạo lâu đời.
Kinh nghiệm thỏa hiệp Quốc Cộng 1945 vẫn còn in dấu, hẳn nhiên Ông Cố Vấn Ngô Đình Nhu không thể nào quên. Nhưng, chính quyền VNCH hiện hữu không phải hình thành từ sự phối hợp của các đảng phái Quốc gia mà thật sự được tạo dựng từ Hoa Kỳ và Tòa Thánh Vatican qua sách lược Domino nhằm thành lập một tiền đồn chống Cộng Sản tại Miền Nam Việt Nam.

Sự sắp xếp lại đội ngũ, chiến thuật, trong thời gian 15 phút nghĩ giải lao trước khi tiếp tục hiệp nhì của trận túc cầu hoàn toàn do quyết định của Huấn luyện viên.
Cũng như chuyển đổi " Quốc Gia Việt Nam " thành VNCH, thay thế Quốc Trưởng ( cựu Hoàng Đế ) Bảo Đại bằng Tổng Thống ( cựu Thượng Thư ) Ngô Đình Diệm, gián tiếp hay trực tiếp phải có ưng thuận hổ trợ của Đồngminh Hoa Kỳ.
Trên bốn vùng chiến thuật VNCH, màn lưới CIA đặt dầy dặt khắp mọi nơi, nên hành vi toan tính phản bội của Chánh quyền Ngô Đình Diệm nhất là mọi cử động của Cố Vấn Ngô Đình Nhu Hoa Kỳ đều biết rõ.
Thể diện một Đại Siêu Cường, Hoa Kỳ không thể đột ngột, thẳng thừng lật đổ Chế độ Ngô Đình Diệm bằng lý do đơn thuần mù mờ : Toa rập với Cộng Sản BắcViệt trù tính việc hiệp thương hai miền Nam Bắc, phản bội lại chính sách của Hoa Kỳ.
Hành động như thế sẽ gặp phản ứng đối kháng của những thành phần ủng hộ chánh quyền gia đình Ngô đình Diệm, nhất là thực thể chính trị lớn mạnh của hơn 2 triệu đồng bào Thiên Chúa giáo Vatican sẽ gây bất lợi cho Hoa Kỳ. Khi mà, Hoa Kỳ cần thiết về lâu về dài sự hợp tác của thực lực Tôn giáo này trong trận chiến Đông Dương lần thứ hai.

Không phải ngẩu nhiên xảy ra vấn đề cấm treo cờ Phật giáo vào ngày lễ Phật đản tại Huế. Không phải vô tình vô ý chế độ Ngô Đình Diệm thiếu tinh tế chính trị để cho phong trào đấu tranh Phật giáo bùng nổ khắp toàn quốc, ngay thời điểm toan tính hiệp thương giữa Cố Vấn Ngô Đình Nhu và Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã chín mùi, hẳn nhiên phải hiểu sự việc trên do bàn tay lông lá chủ động để chuyển biến thế cờ .
Điều cần ghi nhận, nếu Thượng tọa Trí Quang là cán bộ Cộng sản BV thì tại sao ở giai đoạn này, Thượng tọa không tìm phương cách giải quyết ổn thỏa Phong trào Phật giáo với Chánh quyền Ngô Đình Diệm. Vì như thế sẽ tạo điều kiện thuận lợi để Chủ tịch Cộng sản BV Hồ Chí Minh dể dàng tiến hành chuyện hiệp thương với VNCH.

Đứng trước thực trạng nghiêm trọng do bàn tay CIA tạo ra để có lý do chánh đáng xúi dục Quân đội VNCH lật đổ Tổng Thống Ngô Đình Diệm, bẻ gãy mưu toan tống xuất thế lực ngoại bang ra khỏi VN nhằm tiến tới thỏa hiệp hai miền Nam Bắc, thực hiện đúng đòi hỏi của Hà Nội từ 9 năm qua.
Ngược lại, vai trò của Thượng Tọa Trí Quang hầu như tiếp tay, tiếp sức cho Đại sứ Hoa Kỳ Henry Cabot Lodge. Hệ thống truyền thông Mỹ đồng loạt tuyên truyền tạo căm phẩn sâu đậm trong chánh giới và công luận Hoa Kỳ về tình trạng kỳ thị và đàn áp Phật giáo của Chánh quyền Gia đình Ngô Đình Diệm, một thế gia vọng tộc Thiên Chúa giáo Vatican.

Từ thời Pháp thuộc đến Đệ nhất VNCH, Phật giáo không thụ đắc đúng vai trò của một tôn giáo gắn liền với Tổ quốc Dân tộc gần 2000 năm qua,có 80% tín đồ trong quần chúng, bị kìm hãm và chi phối bất công bởi Dụ số10, kìm hãm Phật giáo trong quy chế giới hạn của hiệp hội tương tế.
Chánh quyền thuộc địa với sự hợp tác thủy chung của những quan chức Nam Triều, phần đông là tín đồ Thiên Chúa giáo Vatican thuần hành đã đè nén Phật giáo vào thế im hơi lặng tiếng, bất động trước thảm cảnh nước mất nhà tan gây ra bởi thế lực cường quyền quốc tế.
Sự đối xử bất công,chèn ép Phật giáo vẫn tiếp tục dưới thời Đệ nhất Việt Nam Cộng Hòa Ngô Đình Diệm.

Hệ thống tình báo CIA Hoa Kỳ đã từ lâu nghiên cứu và trù liệu " Lá bài Phật giáo " và chưa từng dịp sử dụng từ đầu thập niên 1950 đến nay.
Cho nên, khi CIA Hoa Kỳ đưa " Lá bài Phật giáo " ra trong thời điểm này thật là ngoạn mục, hổ trợ bởi lực lượng truyển thông báo chí quốc tế thần sầu quỷ khóc, Tổng thống Ngô Đình Diệm và Gia đình bị Công luận Thế giới và Hoa Kỳ kết án kỳ thị , tàn ác, trắng trợn đàn áp Phật giáo đồ.
Hoa Kỳ đã tạo dựng điều kiện ắt có và đủ để danh chánh ngôn thuận hạ lệnh cho Quân đội VNCH dưới quyền điều khiển của các Tướng lãnh liên hệ, thực hiện cuộc đảo chánh lật đổ Chánh quyền Gia đình Tổng Thống Ngô Đình Diệm.

" Lá bài Phật giáo ", Hoa Kỳ tung ra bằng chưởng lực thâm hậu của Đại Siêu Cường Quốc đốn ngã Đệ Nhất VNCH của Tổng Thống Ngô Đình Diệm, bóp chết trong trứng nước mưu đồ thỏa hiệp Nam Bắc giữa Cố vấn Ngô Đình Nhu và Chủ tịch CS Bắc Việt Hồ Chí Minh, đồng thời ung dung đưa Việt Nam đi vào Bát quái trận đồ máu lửa Đông Dương lần thứ hai !

Còn tiếp


mardi 6 décembre 2011

Anh Huy

Dân tộc Sinh tồn
Phần 1

Bám chặt vào lòng dân tộc, tạo thành sức mạnh vạn năng giữ vững nền độc lập, bảo vệ lãnh thổ vẹn toàn, xây dựng dân chủ, kiến tạo tự do hạnh phúc cho toàn dân, đưa Tổ quốc Quê hương đến đỉnh vinh quang, thịnh vượng phú cường, đó chính là mục đích tối hậu của Chủ thuyết Dân tộc Sinh tồn !

Mục đích tối hậu đó, bắt nguồn vào năm 968 khi Vạn Thắng Vương Đinh Bộ Lĩnh dẹp tan 12 sứ quân, lên ngôi xưng Đế hiệu là Đinh Tiên Hoàng, đóng đô tại Động Hoa Lư và đặt Quốc hiệu là " Đại Cồ Việt " .
Triều đại nhà Đinh chỉ một đời ngắn ngủi chuyển qua nhà Tiền Lê truyền được ba đời đến năm 1009. Ngọa Triều Lê Long Đĩnh mất, quần thần tôn Tả-thân-vệ Điện-tiền Chỉ-huy sứ Lý Công Uẩn lên ngôi vua, xưng đế hiệu là Lý Thái Tổ.
Năm 1010, Vua Lý Thái Tổ dời Đô về Đại La cải tên là Thăng Long tức là Hà Nội ngày nay.
Năm 1028,Vua Lý Thái Tổ băng hà, Thái tử Phật Mã lên ngôi tức là Vua Lý Thái Tông.
Năm 1054, Vua Lý Thái Tông băng hà, Thái tử Nhật Tôn kế vị lấy Đế hiệu là Lý Thánh Tông.

Vua Lý Thánh Tông phán rằng : Chữ Đại và chữ Cồ đồng nghĩa là to lớn, nên bỏ bớt chữ Cồ, sắc chỉ đổi Quốc hiệu nước ta là " Đại Việt "
Từ đó, Chủ Thuyết Đại-Việt Sinh-Tồn được hun đúc và phá tnguồn. Chủ Thuyết Đại Việt Sinh Tồn phát khởi

dựa vào quốc hồn, quốc túy của dân tộc, hòa nhập cùng với tinh thần Bi, Trí, Dũng thượng thừa của Phật Giáo
du nhập vào đất nước ta từ hơn 10 thế kỷ đã qua .
Thể hiện thiết thực Chủ-Thuyết Đại-Việt Sinh-Tồn nhằm bảo vệ nền tự chủ và vẹn toàn Tổ Quốc, Đại Tướng Soái, Thái Úy Việt Quốc Công Lý Thường Kiệt đã xuất khẩu thành bài thơ tứ tuyệt và tuyên đọc trong trận chiến chống quân nhà Tống xâm lăng như một bản tuyên ngôn độc lập đầy hùng khí sinh tồn đầu tiên trong lịch sử dân tộc Đại Việt :
" Nam-quốc sơn-hà Nam đế cư,
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư.
Như hà nghịch lổ lai xâm phạm,
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư "
Bản dịch :
" Núi sông Nam-Việt vua Nam ở,
Vằng vặc sách trời chia xứ sở,
Giặc dữ cớ sao phạm đến đây ?
Chúng mày nhất định phải tan vỡ . "
Triều đại Nhà Lý với chiến công hiển hách : Bắc phạt Tàu Tống, nam bình Chiêm Thành, cương thổ khuếch trương rộng mở, đất nước tự chủ phú cường, dân tộc ấm no hạnh phúc. Đó chính là hành sử Chủ Thuyết Đại Việt Sinh Tồn một cách thiết thực và khéo léo.

" Chủ Thuyết Đại Việt Sinh Tồn " không phải là một thành ngữ suông để tạo hấp dẫn chính trị, tranh dành quyền lực bè phái mà chính là đường hướng đấu tranh chính trị trung thực của dân tộc đứng trước tính trạng bạc nhược suy vong của đất nước .
Sự bạc nhược suy vong phơi bày khi Triều đình Huế nhà Nguyễn hạ bút ký vào bản văn kiện đầu hàng Pháp và Cường lực quốc tế vào ngày 06.06.1884 tại Huế, chấp nhận nhục nhã sự bảo hộ của nước Đại Pháp lên trên toàn lãnh thổ Đại Nam chúng ta.
Bản văn kiện đó thường được gọi là"Hòa ước năm Giáp Thân 1884"hay"Hòa ước Patenôtre".

Quốc hiệu từ "Đại Cồ Việt" chuyển qua "Đại Việt", đổi thành "Việt Nam", rồi đến" Đại Nam". Vào đầu thế kỷ thứ 19 quyền lực của Triều đình nhà Nguyễn Phúc chế ngự toàn thể Đông Dương .Thế mà giữa thế kỷ 19 vào năm 1858, đất nước chúng ta phải thúc thủ dưới lằn đạn thần công đại bác xâm lược của liên quân Pháp và Tây Ban Nha, tấn công vào Đà Nẳng.

Sự yếu hèn của Nguyễn Phúc Ánh chỉ vì nuôi chí phục nghiệp Chúa, chống lại Triều Nguyễn Tây-Sơn, đoạn lòng phụ tử, giao Hoàng Thái Tử Nguyễn Phúc Cảnh mới 4 tuổi cho Giám mục Bá Đa Lộc rửa tội cải theo đạo Thiên Chúa, đóng vai làm con Tin, mang sang Pháp cầu viện, mở đường rước voi Thực dân & Cường lực Quốc tế về dày xéo quê hương đất tổ !

Nhận thức được sự lầm lẫn của phụ hoàng, Hoàng Đế Minh Mạng sang suốt thay đổi đối trị, chặn đứng hiểm họa xâm lăng của Thực dân và Cường lực Quốc tế mưu đồ thống trị nước Đại Nam ta qua nhiều hình thức.
Vào thời đó, sức mạnh liên hoàn vô địch của Thực dân và Cường lực Quốc tế hầu như thống trị toàn cầu, hai triều vua Thiệu Trị và Tự Đức kế tiếp bất lực đành thúc thủ.
Bản văn đầu hàng mang tên " Hòa ước Patenôtre 1884 " buộc Triều đình Huế hạ bút ký, chấp nhận Thực dân Pháp bảo hộ. Nước Đại Nam mất quyền tự chủ và dân tộc Việt trở thành " thuộc dân " của nước Pháp!

Thắm nhuần Chủ Thuyết Đại Việt Sinh Tồn, hun đúc tâm nguyện Bi Trí Dũng Phật Giáo từ hơn 2000 năm trôi qua, kết tụ thành Tam giáo quy nguyên, trui luyện tinh thần quốc gia dân tộc vùng lên, nung sôi chí khí quật cường, tác động thành những Phong trào Cần Vương, Phong trào Văn Thân nổi lên khắp nơi từ Nam chí Bắc, đồng loạt tổ chức kháng chiến chống lại thế liên hoàn của Thực dân Pháp và Cường lực Giáo quyền Quốc tế, đang phân chia lãnh vực thực hiện cuộc đô hộ đất nước chúng ta !
Từ cuộc kháng chiến này đến cuộc kháng chiến khác đều bị đốn ngã,làm thế nào giáo mác, búa rìu, tầm vông vạt nhọn, tay không chống cự nổi với súng đạn đại pháo thần công.
Đằng khác, miếng mồi quyền thế danh lợi đã khiến bọn Việt gian bán rẽ lương tâm, quên đi giống nòi, cộng tác sống chết với Thực dân và Cường lực Giáo quyền Quốc tế đang bành trướng mưu đồ thống trị thế giới một cách tinh vi theo chiều dọc !

Vào tháng 10.1917, Lénine lèo lái cuộc cách mạng Bolcheviks Nga sô thành công xuyên qua chủ thuyết Quốc tế Cộng sản, tiến tới việc thành lập Cộng hòa Liên Bang Sô Viết, phát động Cách mạng Quốc tế Vô sản với chiêu bài giải phóng các dân tộc bị trị trên thế giới và những nước nhược tiểu trên toàn cầu đang bị các cường quốc Tây phương xâm chiếm làm thuộc địa.
Thế chiến thứ I kết liểu, tiếp đến cuộc khủng hoảng kinh tế xẩy ra .... mâu thuẩn chính trị, tranh chấp quyền lợi, các cường quốc thắng và bại trận sắp sửa bị lôi kéo vào một cuộc thế chiến mới quyết liệt và tàn khốchơn !

Sự liên kết trắng trợn giữa Thực dân Pháp và Cường lực Giáo quyền Quốc tế áp đặt nền đô hộ trên quê hương ta trãi dài đến tiền bán thế kỷ 20, chính là nguyên nhân tạo môi trường để Cộng sản Quốc tế cấy sinh trùng

" Cách mạng Vô sản " vào phần đất Đông Dương.
Dựa vào Chủ thuyết Quốc tế Cộng sản yêu mị, phóng mắt nhìn sự thành công cuộc cách mạng Bolcheviks Nga sô một cách quá mê muội, tin tưởng thành trì Liên sô là hậu phương bền vững cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và dành lại nền độc lập cho quê hương. Hằng loạt thanh niên yêu nước đã dấn thân vào trường tranh đấu qua sự dựt dây của các cán bộ Quốc tế Cộng sản.

Sự bành trướng Chủ thuyết Quốc tế Cộng sản trên toàn bán đảo Đông Dương trong thời gian này không khác chi " Cá gặp Nước, Diều gặp Gió "
Mặc dù là tà thuyết ngoại lai huyễn hoặc, nhưng lại đúng thời điểm, đánh trúng vào ngay tâm lý " bài Phong, đã Thực " của người dân bị trị .Cao trào đấu tranh giải phóng dân tộc thuộc địa nổi lên khắp nơi, hầu như đều bị cán bộ Cộng sản Quốc tế len lõi thâm nhập.

Hấp thụ truyền thống Việt Nho và tinh thần Bi Trí Dũng của gia đình, hun đúc bởi Chủ thuyết Đại Việt Sinh Tồn từ thời cường thịnh của Triều đại Nhà Lý khi phát động chiến dịch phạt Tống bình Chiêm cách nay gần đúng 1000 năm.
Vào năm 1935, Nhà Cách Mạng Trương Tử Anh trong những bài tiểu luận viết tại Hà-Nội, Ông đã khẳng định :
" Những triết thuyết, những chủ nghĩa đương thời đều không thích hợp với dân tộc Việt Nam và đều có sai lầm ".
Vào ngày 10.12.1938, Nhà Cách Mạng Trương Tử Anh công bố một hệ thống tư tưởng về triết học và chính trị, đó là :
Chủ Nghĩa Dân Tộc Sinh Tồn .

Còn tiếp

lundi 5 décembre 2011

Thơ Nguyễn Công Trứ

Vịnh Cây Thông


Uy-Viễn Tướng-Công Hy-Văn Nguyễn Công Trứ



( 1778-1858 )




Ngồi buồn mà trách ông xanh,
Khi vui muốn khóc, buồn tênh lại cười.
Kiếp sau xin chớ làm người,
Làm cây thông đứng giữa trời mà reo,
Giữa trời vách đá cheo leo,
Ai mà chịu rét thì trèo với thông.

Tổng bình của Thạch Trung Giả
Trích trong " Văn Học Phân Tích Toàn Thư "
Xuất bản " Lá Bối " SàiGòn 1973 :

Có lẽ đây là bài thơ thâm trầm thấm thía nhất của Nguyễn Công Trứ và là một trong những bài thơ thâm trầm thấm thía của văn học Việt Nam sánh được với bài thơ " Tự thán " của Nguyễn Trãi.
Phải là người hành động nhiều, ê chề lắm, giàu khí phách cũng như giàu tư lự mới làm nổi.Một nỗi kiêu hãnh đi với một nỗi xót xa, than thở nhưng than thở với mình hay một vài người như mình. Đau khổ nhưng vẫn ngạo nghễ mà lại càng ngạo nghễ để vươn cao lên sống trong cái cô độc của tâm hồn không cần xót thương an ủi. Thực là niềm đau khổ của kẻ anh hùng, càng đau khổ càng anh hùng. Vì dám nhận sự đau khổ mà vượt lên trên đau khổ, vui với khí phách của mình.
Nghệ thuật bài thơ này cũng như mọi bài thơ nhập diệu không thể nào phân tích được. Chúng ta chỉ nên nhắc đến thể lục bát nhiều bình thanh và thường tận cùng bằng những phù bình thanh khiến ta nghĩ đến tiếng thông đìu hiu cao vút như một tiếng ngậm ngùi dài nhưng cũng lại là một tiếng reo ca.Nguyễn Công Trứ thực đã cảm thấy cực kỳ thấm thía thế nào là lợi danhvinh nhục, thế nào là thế gian này.
Ngoài ra chúng ta nên nhắc đến câu bát thứ nhất tức là câu thứ hai của bài thơ :
" Khi vui muốn khóc, buồn tênh lại cười "

Một câu hai vế đối ngẫu làm nổi bật cái éo le cay đắng của cuộc đời đã kết tinh biết bao nhiêu tâmtrạng của một kiếp người.Chúng ta không thể phân tích được hết những cái hay vì nó quá hay, cái hồn sống của nó đã vượt ra ngoài sự mổ xẻ luận bàn.Nhưng chúng ta phải nhận rằng tuy là một tâm trạng sâu xa nhưng không phải là tất cả con người của Nguyễn Công Trứ : Người đó có những lúc giận đời nhưng cái giận cái chán không thể làm tiêu ma tấm lòng vì nước vì dân, nghĩa là vì đời. Cái việc tám mươi tuổi còn dâng sớ xin cầm quân chống lại Thực dân Pháp là một bằng chứng hùng hồn để trả lời những người cố nhìn thấy ở Nguyễn Công Trứ :
" Phù thế giáo một vài câu thanh nghị "
mà không hề nhận thức rõ cái diễn tiến tâm lý của Uy-Viễn Tướng-Công :
" Khi vui muốn khóc, buồn tênh lại cười "
Chính cái tiêu cực đó đã nói lên cái chí khí của " Kẻ Sĩ " khi nhìn vận nước nghiêng ngã đến ngày nay từ khi Liên quân Pháp và Tây Ban Nha toa rập với Cường lực Giáo quyền Quốc tế tấn công vào Đà Nẵng năm 1856 xâm chiếm nước Đại Nam ta.

Cát Phượng suy tầm

nhạc Anh Huy

Thu Paris nhớ SàiGòn ( Valse chậm )
Mùa thu Paris làm ta nhớ thương Sài Gòn,
Mùa thu Paris sầu viễn xứ dâng trong hồn.
Mùa thu Paris ta khóc quê hương chìm đắm,
Mùa thu Paris bao xót xa trong lòng ta.
Mùa thu Paris từng chiếc lá rơi lạnh lùng,
Mùa thu Paris đường phố vắng thưa không người.
Mùa thu Paris năm tháng qua như làn gió,
Múa thu Paris làm ta nhớ thương Sài Gòn.
Mùa thu Paris lòng người ly hương đong cao muộn phiền.
Mùa thu Paris ta sống lưu vong hận thù thâm sâu.
Mùa thu Paris người Việt tha phương nhớ quê hương mình ...



nhạc Anh Huy


Còn nửa đời (Chậm buồn)
Còn nửa đời, anh xa em, anh xa con, xa quê hương mãi mãi em ơi em ơi .
Cuộc hồng trần, bao chong gai, bao thương đau...
Như cơn mê cuốn trôi linh hồn, như thiên thu đưa người vào quên,
anh bơ vơ giữa đoạn đời này.
Paris giam ta từng nẻo đường, xin cho hơi thở nhịp nhàng, ban sơ đôi mắt nai tơ .
Quê hương ta mơ một lối về, son môi em nở nụ cười, ru con âm điệu ca dao .
Còn nửa đời, anh xa em, anh xa con, xa quê hương mãi mãi em ơi em ơi .
Ngày từng ngày, đêm qua đêm, tay xuôi tay ...
Anh hoang mang thân phận con người, cơn mưa thu lá vàng rụng rơi,
anh lênh đênh giữa đoạn đời này.

Triết Luận

Thiện Ác
Trích trong :
Triết Học Đông Phương
Thu-Giang Nguyễn Duy Cần

Nhà Đạo học Tây phương Plotin có nói : " Dù là việc Ác, cũng một phần nào cần thiết như việc Thiện, vì nó phát sinh ra được nhiều tốt đẹp; nó dẫn dắt tìm những phát sinh sáng tạo lợi ích và bắt buộc con người biết thận trọng và ngăn cấm không cho sa vào giấc ngủ mê man, một sự an thân lười biếng. Bóng tối cần cho Ánh sáng, Ác cần cho Thiện, Vô minh cần cho Giác ngộ... Và hơn nữa : Phiền não tức là Bồ đề ...Cả hai là Một . »

Người ta, ngày nào còn bị ràng buộc trong cái tướng giả hữu của hiện tượng giới ... thì còn dùng đến danh từ " lợi hại ", " thiện ác ", " thị phi " " hữu đạo, vô đạo ".... rồi đặt thành quy luật để bảo vệ cái Thiện, bài trò cái Ác... mà chẳng hay rằng tất cả vạn hữu trên thế gian này đều chằng chịt với nhau như các tế bào trong một thân thể chung . Bởi hiểu rõ cái lẽ " sự sự vô ngại " của hiện hữu mà tất cả mọi người Giác Ngộ từ trước đến giờ... đều không chấp nhận luật tử hình hoặc hành hạ bất cứ một tội nhân nào bởi tất cả chúng sinh là Một .

Từ ngàn xưa... những người chưa Giác Ngộ đều cho rằng giáo lý cùa các Bậc Đại Giác ( như Phật, Lão, Trang v.v....) không thể bao giờ áp dụng được trong hiện tình xã hội loài người mà phải dùng đến cái luật cùa rừng rú ( loi de la jungle ) nghĩa là " hễ ai móc mình một con mắt, thì hãy móc lại một con mắt ; bẻ mình một cái răng thì bẻ lại một cái răng " ( oeil pour oeil, dent pour dent ) nghĩa là " Thiện Ác đáo đầu, chung hữu báo ".

Để chỉ cho nhân loại cái phương pháp vượt khỏi sự nô lệ ngoại cảnh, vượt khỏi sự hằn học, thù hận của loài người lẫn nhau ( vì tranh nhau về vấn đề Thiện Ác ) vượt lên những quan niệm sai lầm của các thứ nhận thức nhị nguyên đã ràng buộc con người trong vòng u mê, tội lỗi, sân si, tham dục ...mà Thích Ca Như Lai mới hoằng dương Phật pháp .

Đạo Phật là một đạo Đại Từ Bi, Năng Hỷ Xả và người tu hành Bồ Tát phải... không còn phân biệt kẻ lành , người dữ, kẻ thiện người ác, nghĩa là phải biết " thường hành bình đẳng ".
Ta có thể nói rằng : Nhân Ngã không phải là hai, Bởi Vô Minh nên có Nhân, có Ngã, nên mới có Thiện, có Ác, có lợi, có hại. Trái lại, nếu nhận rõ tất cả là Một, Ta là Người, thì đối với lợi hại, thiện ác sẽ không còn nữa, vì cái hại của kẻ này là cái lợi của kẻ kia, cái lợi của người kia là cái hại của người nọ ...không có cái gì thêm cho ai, bớt cho ai, lợi cho ai, vì tất cả là Một, và tất cả là Ta .

Nói một cách khác, nếu vẫn còn thấy có một cái Ta thì bất cứ làm gì chỉ có lợi cho Ta, cho gia đình Ta, cho bè bạn Ta, cho quốc gia Ta, cho dân tộc Ta mà có hại cho Đoàn Thể không phải là Ta ... đều là Ác cả .

Nếu làm lợi cho tất cả mọi người ..thì mới gọi là Thiện. Định nghĩa được như thế, mới nhận thấy được cái phản "Liễu nghĩa" (cái nghĩa rốt ráo, cùng ý tận nghĩa ) về Thiện Ác của Phật giáo .

Nhận xét về Thiện Ác, Phật giáo căn cứ vào tiêu chuẩn lợi và hại. Lợi cho tất cả, là Thiện ; lợi cho mình mà hại cho người là Ác. Bởi cái lý " Nhất đa tương dung " nên người tu Phật không bao giờ gây đau khổ cho ai tất cả .

Nhưng, cũng cần lưu ý đến điều này : theo Phật giáo cứ là làm việc gì... không nên căn cứ vào việc làm ấy mà phải căn cứ vào cái tâm của người làm việc ấy trước hết. Có khi là một việc mà thiên hạ, luân lý, đều cho là Ác, mà không Ác, là vì việc làm ấy phát ra do một thiện tâm, thiện ý cải thiện hay cứu rỗi. Cũng cùng một việc làm mà người này làm, sẽ được gọi là Thiện, còn người kia làm, lại bị xem là Ác .

Thiện Ác ' ( theo nghĩa thông thường ) cần phải được nhìn với cặp mắt đại đồng, cần phải xem như hai đứa trẻ sinh đôi cùng một vú mẹ, như một quả tim với hai buồng máu đỏ đen...
Hay nói theo triết học Kinh Dịch :
" Thiện Ác giống như cặp Âm Dương, tuy thấy như mâu thuẫn mà chẳng hề bao giờ rời nhau. Sở dĩ được gọi là Dương là vì phần Dương lấn phần Âm, được gọi là Âm là vì phần Âm lấn phần Dương. Thực ra không vật nào trên đời mà thuần Dương hay thuần Âm, cũng như không có gì thuần Ác hay thuần Thiện. Không có một đức tốt nào mà không bị đeo theo một tật xấu của nó. " Phải biết vượt lên trên cả Ác lẫn Thiện, thì mới mong siêu thoát luân hồi mà vào cảnh trí Niết Bàn .

Tu " Thiện nghiệp " để phá trừ " ác nghiệp " lại được một số đông người học Phật cho là phương tiện để đi lần đến Phật Thừa .
Họ lầm và lầm to. Họ quên rằng muốn được giải thoát, muốn được vào Niết Bàn, phải vượt lên trên mọi cặp mâu thuẩn Thiện Ác mới cầu được Trí Tuệ Bát Nhã. Một cái " Ngã " mà to lớn, tốt đẹp bao nhiêu, vẫn là cái "Ngã ", cũng như một sợi dây xích bằng sắt hay bằng vàng vẫn gọi là sợi dây xích. Nó vẫn ràng buộc, cột chặt con người trong vòng sinh tử luân hồi và đau khổ của họ. Cả hai đều Mê lầm như nhau, cả hai đều bị màn Vô Minh và Ái, Thủ, Hữu... che lấp, bị tham, sân, si dày vò cau xé tâm hồn. Cho nên, tu " Thiện nghiệp ", tu cầu phúc... sẽ không bao giờ đưa đến giải thoát được !

Người ta vì không nhận rõ được cái chân lý ấy, nên thường tưởng lầm rằng " Tu " giải thoát, là lấy cái Thiện mà trừ cái Ác, không dè Thiện hay Ác đều do Vô Minh mà ra cả ( Ác là do lòng ích kỷ mà ra; thì Thiện cũng chỉ là một hình thức khác của " ngã chấp ", tức là lòng nghĩ có mình " autre forme subtile de l'égotisme " ) . Bị Ác nghiệp thì lăn trôi trong dòng sinh tử
luân hồi nhưng được Thiện nghiệp, vẫn cũng bị lăn trôi trong dòng sinh tử luân hồi như người bị Ác nghiệp nào có khác gì ở phương diện bị bó mình trong nghiệp báo .

Tu Phật, là tu để chấm dứt dòng nhân quả nghiệp báo... là tu để chứng nhập Niết Bàn, nếu lại tu theo cách cầu phúc báo, tu theo Thiện nghiệp để rồi phải bị trói buộc trong vòng sinh tử luân hồi, thì cái " Tu " đó, là tu " Ác Đạo ".

Một nhà Đạo học Ấn Độ trứ danh hiện nay cũng cùng một nhận xét như trên khi ông nói : "Người đạo đức đầy đức tốt, cũng như người xấu xa đầy tật xấu đều không ai gần Chân Lý cả ; Gần Chân Lý là kẻ đã vượt thoát cả hai.....
Đừng tìm cách để mà tạo cho mình những đức tốt, mà phải tìm cho ra cái nguyên nhân của sự chia phân, tức là cái ngã thức...Đừng lấy cái đức tốt này mà đả phá cái tật xấu kia ( nghĩa là đừng dùng một trong cặp mâu thuẩn Thiện Ác để chế trị lẫn nhau ), cũng đừng tìm cách lập lại quân bình giữa hai cái mâu thuẩn ấy, vì làm thế chỉ làm cho bên đối phương càng mạnh thêm lên .
So sánh với lời này của Lão Tử : " Tương dục hấp chi, tất cố trương chi ; tương dục diệt chi, tất cố cường chi, tương dục phế chi, tất cố hưng chi ; tương dục đoạt chi, tất cố dữ chi " ( Nghĩa là hòng muốn thu rút đó, lại sắp mở rộng cho đó ; hòng muốn làm yếu đó, là sắp làm cho đó mạnh lên ; hòng muốn vứt bỏ đó, là sắp làm cho đó hưng khởi lên ; hòng muốn cướp đoạt đó, là sắp ban cho đó " Lảo Tử Tinh Hoa, Tr 131-132 ).

Cái mà gây ra những sự chống đối nhau, chính là lòng ích kỷ, là cái ý niệm chia phân . ( Chia phân Thiện Ác của cái Tâm Sai biệt của mình ). Cái đối lập cũng chứa đựng ngay cái phần mà nó đối lập, nghĩa là cái phần mà mình trốn tránh .

dimanche 4 décembre 2011

Anh Huy

Căn Nguyên
Đi ngược lại sách lược này đều bị đốn ngả !
Khảo luận Chính trị

Phần 3

Giai đoạn này, Liên-Sô đang giúp Quân đội Cu Ba mở rộng địa bàn Xã Hội Chủ Nghĩa trên đất Angola Châu Phi ( cựu thuộc địa của Bồ Đào Nha ) đã là một gánh nặng tài lực, gồng gánh thêm việc áp đặt một chính phủ bù nhìn và đưa Hồng quân Liên-Sô vào chiếm đóng A Phú Hản. Chừng đó Quân viện và Kinh viện cho 2 quân bài trên, sức chịu đựng của Liên-Sô thấm mệt .

Cũng vào thời điểm này, mùa thu 1978, khi Đức Hồng Y người Ba Lan Karol Wojtyla được tấn phong trở thành Đức Giáo Hoàng Jean-Paul II, lãnh đạo và nắm giềng mối Giáo-Hội Công-Giáo La-Mã Vatican .
Tầm ảnh hưởng rung rinh đến Chiến lược, Chính trị của Liên-Sô. Không riêng gì với Ba-Lan mà còn gây tác động giây chuyền đến toàn thể các Chư hầu Đông Âu .

Thiên Chúa Duy Linh Hữu Thần và Cộng Sản Duy Vật Vô Thần đối nghịch từ khi Karl Marx lãnh đạo Đệ Nhất Quốc Tế Cộng Sản 1864 và cho ra đời trọn bộ tác phẩm " Tư Bản Luận " 1867/ 1885/ 1894, sách gối đầu nằm của con người Cộng Sản vô thần!

Sự đối nghịch thù hằn chồng chất hơn khi Thế chiến thứ 2 chấm dứt. Liên Sô bành trướng Đệ Tam Quốc Tế Cộng Sản trên Thế giới. Đầu tiên, áp đặt Chế Độ Độc Tài Cộng Sản vào các nước Đông Âu, rồi truyền qua vài nước Á Châu...gieo luồng gió Cách Mạng Xã Hội Chủ Nghĩa vào những cao trào đấu tranh dành độc lập của những nước bị các Cường quốcTây phương chiếm làm thuộc địa. Đó cũng là một trong những căn nguyên của cuộc chiến tranh Lạnh giữa Thế giới Âu Mỹ Hữu Thần và Thế giới Cộng Sản Vô Thần.

Nhân dân Ba Lan uất hận bị Đức Quốc Xã và Cộng Sản Liên Sô toa rập cấu xé ngay màn đầu Đệ Nhị Thế Chiến. Đến khi chiến tranh kết liễu, Tam cường thắng trận " Mỹ Nga Anh " thỏa thuận qua hội nghị Yalta " Phân chia Thế giới ", nước Ba Lan lại bị đặt dưới sự quản trị của Liên Sô.
Chính phủ Ba Lan Tự Do lưu vong tại Anh Quốc không được thừa nhận. Liên Sô xây dựng đảng Cộng Sản và thiết lập chính phủ tay sai đưa lên cầm quyền.
Ba Lan, một nước Đông Âu, hơn 90 % dân chúng là Tín đồ Công giáo La-Mã thuần hành, sống dưới chế độ Cộng sản độc tài 33 năm qua. Đức Giáo Hoàng Jean Paul II chính là động lực thúc đẫy L.Walesa lãnh đạo phong trào tranh đấu Solidarnosc tiến đến thành công.
Bứt may động rừng, pháo nổ giây chuyền, Ba Lan thoát ra khỏi chế độ Cộng Sản, tiếp đến bức tường Bá Linh bị phá vỡ, tuần tự các nước Đông Âu trổi dậy tách rời quỹ đạo chư hầu Liên Sô.

Từ sau cuộc chiến biên giới ngắn ngủi vào năm 1969 với Trung Cộng ở vùng Hắc Long Giang đến Liên Sô tan vỡ 1991 trọn vẹn đúng 22 năm.Trong khoản thời gian từ năm 1974 cho đến năm1990 Cộng Sản Việt Nam hoàn toàn lệ thuộc vào Liên Sô. Đóng vai tuồng " Lính xung kích " cho chiến lược toàn cầu của Liên Sô áp đặt vào

vùng Đông Nam Á. Nhận lãnh trách nhiệm " Cảm tử quân " của Đệ tam Quốc tế, đưa Tổ quốc Quê hương ra làm bãi chiến trường . Đẩy xô cả Dân tộc ra làm bia đở đạn,chống phá lại những kế sách thâm độc" Đông phương Hồng"của Trung Cộng .

Năm 1975 xua quân cưỡng chiếm Miền Nam, năm 1978 xâm chiếm Campuchia ; Đông dương hoàn toàn nằm trong tay Cộng Sản Việt Nam .Cơ hồ nhiệm vụ " Komintern " giao phó cho Hồ Chí Minh được thực hiện : Một Liên Bang Xã Hội Chủ Nghĩa Đông Dương sắp sửa thành hình .
Liên Bang Đông Dương do Hà Nội chủ chốt dưới dự chỉ đạo của Liên Sô... rồi sắp tới số phận Thái Lan và tương lai cả vùng Đông nam Á... Cộng Sản Việt Nam đang ngất ngưỡng trên đà chiến thắng .

Vào năm 1971, qua sự đạo diễn của Hoa-Kỳ hợp cùng Anh,Pháp và với sự đồng tình của Liên Sô đưa Trung Cộng vào Liên Hiệp Quốc, nắm 1 trong 5 ghế thường trực Hội đồng Bảo an thay thế Trung Hoa Dân Quốc ( Tưởng Giới Thạch- Đài Loan ).
Với tư thế một trong Ngũ Cường trong Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc có quyền phủ quyết mọi nghị quyết của Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc. ( Một trong những Đặc Quyền của 5 nước Đồng Minh thắng trận Đệ nhị thế chiến, đánh bại phe Trục " Đức Ý Nhật " và thành lập Tổ chức Liên Hiệp Quốc; một Đặc Quyền lổi thời, bất công, thiên vị, bè phái làm cho Liên Hiệp Quốc ù lì, bất lực trước những hành động ngang ngược của Ngũ Cường hoặc một Quốc gia được sự yểm trợ bởi Một trong Ngũ cường ! )

Trung Cộng không làm gì được để cứu nguy cho bọn đồ tể Khờ-me Đỏ Pol Pot ở nghị trường Liên Hiệp Quốc vì, Hoa-Kỳ, Anh và Pháp đang bình chân vạc. Liên Sô sẳn sàng dùng quyền phủ quyết để binh vực đàn em Cộng sản Việt Nam. Mặc dù tình trạng chính trị nội bộ chưa hoàn toàn ổn định, lại đang bận rộn cứu xét chương trình chuyển hướng sang kinh tế thị trường được Hoa Kỳ o bế hứa hẹn đầu tư lớn lao, Bộ Chính trị Trung ương Đảng Cộng Sản Trung Hoa đã thông qua và quyết định khẩn cấp thực hiện.
Tuy nhiên, phản ứng quyết liệt nhằm mục đích phá vỡ mưu đồ của Liên Sô, qua tay đàn em Cộng Sản Việt Nam đang manh nha thọc mũi dùi Đông Dương toan khống chế toàn vùng Đông-Nam Á. Đặng Tiểu Bình quyết định tung Quân đội Giải phóng Trung cộng ào ạt tấn công qua biên giới Việt Nam gọi là "Dạy Một Bài Học" đích đáng ..
Nhờ vào kho vũ khí tịch thu được của QLVNCH và Hoa-Kỳ bỏ lại cộng thêm sự viện trợ hùng hậu của Liên Sô. Cộng sản Việt Nam cầm cự và chống trả ác liệt, hai bên đều tổn thất nặng nề về mọi mặt .

Cùng thời điểm,Vương quyền Iran sụp đổ rơi vào tay phe Hồi giáo cực đoan do Ayatollah Khomeyni từ Pháp về lãnh đạo. Đồng thời, A Phú Hản đang trải qua cuộc đảo chính do Thủ tướng Hafezolah Amin lật đổ và giết chết
Tổng Thống Taraki.
Thừa cơ hội, Liên Sô xua quân tràn qua chiếm đóng A Phú Hản chủ định thọc mũi dùi chiến lược xuống biển Oman, bắt tay cùng đồng minh Ấn-Độ án ngữ vùng Nam Á và kiểm soát những hải lộ yết hầu Ấn-Độ Dương.
Dốc toàn lực sức mạnh quân sự, vắt hết khả năng lao động của nhân dân, Liên Sô lao vào canh bài A Phú Hản và Đông Dương dài dẫn gần một thập niên .

Đông Dương, Hoa-Kỳ gài ra thế trận, Trung Cộng lợi dụng thế trận, Liên Sô đánh phá thế trận qua " tên lính xung kích " Cộng Sản VN.
A Phú Hản, Hoa-Kỳ gài ra thế trận, Hồi giáo lợi dụng thế trận, Liên Sô trực tiếp phá giải trận thế .
Nếu chỉ hai mặt trận Đông Dương và A Phú Hản, tiềm lực quân sự của Liên Sô còn chịu đựng được và có thể sử dụng những chiêu thức hóa giải làm lệch cán cân, thay đổi cục diện .
Đằng này, vào mùa hè 1978, chỉ ở ngôi vị mới vừa đúng 33 ngày, Đức Giáo Hoàng Jean Paul I đột ngột băng hà ( 1912-1978 ) hưởng thọ 66 tuổi.
Đức Giáo Hoàng Jean Paul II ( nguyên là Đức Hồng Y Karol Wojtyla ) người nước Cộng Sản Ba Lan thuộc Đông Âu kế vị .
"Cớ sự " không phải là chuyện thường tình, hẳn nhiên gợi cho chúng ta nhiều sự suy tư... Bởi vì, chỉ một năm sau đó " Cớ sự " tạo nên động lực thúc đẩy người thợ điện trẻ L.Walesa cầm đầu phong trào công nhân Solidarnosc khuấy động tan tành chính quyền Cộng Sản Ba Lan. Rồi như dòng điện dây chuyền chuyển động liên tiếp, làm

sụp đổ chính quyền các nước chư hầu Cộng Sản Đông Âu, gây nên sấm sét đánh thẳng vào thành trì đầu xỏ Xã Hội Chủ Nghĩa Đệ Tam Quốc Tế Liên Sô.

Tất cả kế sách đều nằm trong chiến lược toàn cầu, đã hình thành từ 3 thập niên trước. Khi mà, Đại Siêu Cường Quốc nằm bên kia bờ Đại Tây Dương, lãnh thổ là một phần Tân lục địa rộng lớn hơn 9 triệu Km2 trải dài đến tận Thái Bình Dương, tài nguyên phong phú, nhân lực dồi dào. Trong trận Đệ nhị Thế chiến, chờ đến giờ phút những Đế quốc, Thực dân, Phát xít, Quốc xã, Quân phiệt và Cộng sản đấm đá nhau tời bời, sức tàn lực kiệt.
Đại Siêu Cường Quốc Tư bản Hoa Kỳ mới thong dong tham chiến để toàn thắng và kết thúc Đệ Nhị Thế Chiến.

Chính Siêu Quyền Lực của Đại Siêu Cường Quốc Tư Bản nghĩa hiệp này đã triệt hạ Thế giới Đa đầu đã thống trị Thế giới gần 4 thế kỷ vừa qua, chỉnh đốn lại trật tự toàn cầu bằng cách chọn Liên Sô Cộng Sản để thiết lập Thế giới Lưỡng đầu dễ dàng thống trị Thế giới bằng kỷ thuật tinh vi hơn, khơi mào cho cuộc chiến tranh Lạnh giữa

" Thế giới Âu Mỹ Hữu Thần Duy Linh " và " Thế Giới Cộng Sản Vô Thần Duy Vật ".

Chiến tranh Lạnh sẽ gom lợi nhuận kết sù trên Thế giới vào hầu bao của Hệ thống Siêu Quyền Lực Tư Bản Hoa Kỳ. Bất cứ mưu toan hay hành động xem như đi ngược lại sách lược này đều bị đốn ngã, cho dù đó là những vị Tổng Thống của chính thị Đại Siêu Cường Quốc Hoa Kỳ !

Còn tiếp